Lịch sử Permaculture

Một số cá nhân đã thực hiệc cuộc cách mạng hóa ngành permaculture. Năm 1929, Joseph Russell Smith đã thêm một thuật ngữ tiền đề như là phụ đề cho cuốn sách Tree Crops (Cây trồng): Một ngành nông nghiệp lâu dài, một cuốn sách tổng hợp kinh nghiệm lâu năm của ông trong việc thử nghiệm với các loại trái cây và hạt làm thức ăn cho con người và thức ăn chăn nuôi [5]. Smith nhìn thế giới như một thể thống nhất liên quan mật thiết với nhau, từ đó ông đề xuất các hệ thống tổng hợp trong đó cây cao trồng xen kẽ với các cây lương thực bên dưới. Cuốn sách truyền cảm hứng cho nhiều người để làm nông nghiệp bền vững hơn, trong đó có Toyohiko Kagawa người tiên phòng trong phòng trào trồng rừng ở Nhật Bản những năm 1930s.[6]

Tại Úc P.A. Cuốn sách Water for Every Farm của Yeomans năm 1964, ông ủng hộ định nghĩa về nông nghiệp vĩnh cửu, coi đó như một thể chế có thể duy trì vô thời hạn. Yeomans giới thiệu cả phương pháp tiếp cận dựa trên quan sát việc sử dụng đất ở Úc vào những năm 1940 và thiết kế của Keyline như một cách để quản lý việc cung cấp và phân phối nước trong những năm 1950.

Holmgren ghi nhận những ghi chú của Stewart Brand như mở ra bước tiên phong cho ngành permaculture [7]. Những tác động ban đầu khác bao gồm Ruth Stout và Esther Deans, những người đi tiên phong trong việc làm vườn không làm đất, trong đó bao gồm Masanobu Fukuoka, những người cuối những năm 1930 ở Nhật bắt đầu ủng hộ các vườn cây ăn trái và nông nghiệp tự nhiên.

Bill Mollison tháng 1 năm 2008

Vào cuối những năm 1960, Bill Mollison và David Holmgren đã bắt đầu phát triển những ý tưởng về các hệ thống nông nghiệp bền vững trên hòn đảo Nam Úc của Tasmania. Từ nguy cơ nhanh chóng lạm dụng các biện pháp công nghiệp trong nông nghiệp đã tạo ra những ý tưởng này [9]. Theo quan điểm của họ, các phương pháp này (công nghiệp trong nông nghiệp) phụ thuộc nhiều vào các nguồn tài nguyên không tái tạo được, đồng thời làm ngộ độc đất và nước, giảm đa dạng sinh học và loại bỏ hàng tỷ tấn đất mặt từ các nguoond đất trước đó. Họ chịu trách nhiệm tiếp cận với một thiết kế gọi là permaculture. Thuật ngữ này lần đầu tiên được công bố với ấn bản cuốn Permaculture One năm 1978. [9]

Vào đầu những năm 1980, khái niệm này đã được mở rộng từ thiết kế hệ thống nông nghiệp sang môi trường sống bền vững của con người. Sau khi Permaculture One được xuất bản, Mollison đã chắt lọc hơn nữa và phát triển các ý tưởng bằng cách thiết kế hàng trăm các địa điểm permaculture và viết sách chi tiết hơn, như Permaculture: A Designers Manual. Mollison đã giảng dạy tại hơn 80 quốc gia và đã dạy "khóa học thiết kế Permaculture" kéo dài hai tuần của mình cho hàng trăm sinh viên. Mollison đã "khuyến khích sinh viên tốt nghiệp trở thành giáo viên và thành lập các viện nghiên cứu cũng như các các điểm trình diễn của chính họ để nhanh chóng mở rộng của permaculture "[10].